Chữ Quốc-ngữ

(le Quốc-ngữ)

Lời thưa cuả người thực hiện: chúng tôi dựa trên bản chụp lại và cố gắng sao chép đúng với nguyên bản. Cứ theo luật lệ chính tả và văn phạm ngày nay th́ bài văn có nhiều chỗ sai, nhất là ở các cặp chữ s/x, ch/tr, gi/r/d, và những chỗ chấm, phẩy và viết hoa. Không rơ những chỗ sai này do cụ Vĩnh lầm,  hay do hồi đó chưa có luật lệ rơ rệt, hoặc gỉa cụ Vĩnh chủ trương viết theo cách phát âm cuả ḿnh; vấn đề này mong được các học gỉa nghiên cứu làm sáng tỏ. Riêng chúng tôi khi thực hiện chỉ mong thấy sao chép vậy, v́ chúng tôi quan niệm những bài viết này, ra đời cách nay trên dưới 100 năm,  vào thời kỳ phôi thai cuả Việt ngữ, nên mang ít nhiều tính chất lịch sử. Ở trên chúng tôi nói cố gắng giũ đúng nguyên bản  v́ chúng tôi chỉ có bản chụp; bản chính được h́nh thành cách nay non một thế kỷ, vào lúc kỹ nghệ in ấn và giấy mực c̣n thô sơ, rồi tài liệu đuợc lưu trữ gần một thế kỷ nên ngay bản chính cũng đă mờ nhạt; nay chúng tôi có bản chụp cuả bản mờ nhạt  nên không tránh khỏi có những chỗ không thể nào phân biệt được chữ ǵ, dù đă dùng đến kính phóng đại. Trong trường hợp đó,  chúng tôi chỉ c̣n cách dựa trên ngữ cảnh mà đoán.

Hiện chúng tôi đang sưu tầm thêm những tài liệu về cụ Nguyễn Văn Vĩnh, quư vị nào có xin vui ḷng liên lạc nguyenhongphuc54@yahoo.com . Xin đa tạ

Kính báo.  

 

Chữ quốc-ngữ tuy rằng có mấy nơi khuyết-điểm, có mấy chỗ không-tiện, song tỉ với chữ-nôm ta, và chữ-nho th́ thực là một lối tiện quá rồi, cho nên ai cũng đành rằng cứ nên để y như vậy mà dùng.

Mấy năm nay có người bàn cách sửa đổi chữ quốc-ngữ cho phải lẽ, nhưng mà chẳng lư nào bằng thói-quen cuả người ta, cho nên tuy đă có nghị-định y lời Kuốk-ngữ tân-thứk, mà không ai chiụ theo, tân-thứk lại mang tiếng oan rằng khéo vẽ vời cho nhiễu-sự.

Nay bản-quán lấy việc cổ-động cho chữ quốc-ngữ làm chủ-nghĩa, tưởng cũng nên đem hết cảc khuyết-điểm, các nơi không tiện ra mà bàn lại, chẳng dám đem cách nào mới mà xin thế vào lối cũ, sợ thiên-hạ lại bảo vẽ vời,  song cũng nên bàn các nơi bất-tiện ra để ai nấy lưu-tâm vào đó, th́ dễ có ngày tự-dưng chẳng  phải ai bàn mà chữ quốc-ngữ tự đổi dần dần đi.

Trước hết chữ quốc-ngữ không biết bởi ai mà thành ra, nhưng quyết được rằng những người dùng đầu-tiên, không phải là người Đại-pháp. Ư hẳn là bởi mấy ông cố-đạo Bồ-đào-nha đến đất Nam-kỳ từ đầu XVII thế-kỷ, cho nên nhiều vần không giống vần Đại-pháp. Sự ấy đến ngày nay thành ra khuyết-điểm.  V́ gía thử chữ quốc-ngữ đặt theo vần Lang-sa, th́ người học chữ quốc-ngữ vừa học được vần Lang-sa nhân thể mà trong vần quốc-ngữ gía có lộn tiếng Lang-sa vào, cứ viết theo cách Lang-sa ai ai cũng đọc được.  Chẳng may vần Lang-sa khác, cho nên những tiếng Lang-sa viết lộn vào văn quốc-ngữ, như là các tên người, tên các xứ, những tiếng chỏ các thứ đồ vật ta không có tên, phải dùng tiếng tây, th́ không mấy người đọc được, muốn cho người ta đọc được, lại phải dịch vần Lang-sa ra vần quốc-ngữ, nghe nó ngô nghê khó chịu quá mà lại sai mất cả cách viết,  mà trong tiếng Lang-sa th́ cách viết là một điều quan-hệ, như chữ l'on (là người ta) mà dịch ra vần quốc ngữ là long th́ có lẽ lẫn với tiếng long  (là dài), th́ khác nào chữ nho viết lẫn với chữ chi ra chữ chi .

 Ví thử vần quốc-ngữ mà đặt theo vần Lang-sa th́ có lẽ tránh được cái phiền phải đặt hai chữ mới như chữ đ và chữ ơ. Chữ u Lang-sa th́ đáng lẽ dùng tạm làm chữ ư quốc ngữ c̣n chữ u quốc ngữ th́ vần tây viết ou.

Nghe đâu có mấy ông Tây dùng lối vần tây mà viết tiếng an-nam, chỉ thêm 5 dấu, thế mà dạy các qúy-quan học tiếng ta tiện lắm.

Tôi  ước ao rằng một ngày kia sẩy ra một lẽ ǵ làm cho lối mượn vần tây ấy thành ra lối quốc-ngữ teune thúque thực diệu. Chỉ ước thế chứ không dám bàn, v́ một lối chữ đặt ra lúc nào không ai biết được, v́ cớ ǵ mà  theo lệ nào cũng không pḥng định được, lúc tự-dưng nó đổi đi, xong rồi mới biết được nhẽ tại làm sao, chớ ai có nên bàn cái thể thức một lối chữ, một tiếng nói, một văn- chương.

C̣n như chữ quốc-ngữ có mấy điều người Bắc-kỳ ta tưởng rằng bất-tiện nhưng tôi đă nghiệm ra ở Trung-kỳ và ở Nam-kỳ th́ thực là nên để như vậy.

Như những tiếng nên viết ch hay là tr ngoài Bắc ta th́ không phân biệt chút nào,  nhưng ở Nam-kỳ th́ thật có phân biệt. Như con trâu mà viết thành châu ( hạt châu) th́ người Nam-kỳ không hiểu. Xét kỹ ra, th́ sự phân biệt ấy có chữ quốc-ngữ rồi mới phân biệt, chứ không phải vốn vẫn phân biệt.  Nghĩa là ngày xưa trong cách đọc cũng có mấy cách đọc ch không uốn lưỡi với một cách đọc nặng tr, nhưng mà cách đọc khác nhau ấy không làm cho một tiếng khác nghĩa đi. Về sau có chữ quốc-ngữ rồi, đặt thành tự-vị, th́ người sau theo người trước, mà lấy cái t́nh cờ làm ra một cái lệ, đến ngày nay quen mắt quen tai đi rồi, người nông nổi tưởng là vốn tiếng Nam-kỳ ngày xưa con trâu phải đọc nặng mà hạt châu phải đọc nhẹ. Việc này tôi đă thí nghiệm ở người không biết chữ quốc-ngữ th́ thực họ không phân chỉ có mấy người biết chữ quốc-ngữ th́ cho cách phân biệt ấy là một cách cuả người có học. Sự này tôi đă có ư nghiệm từ Thanh-hoá vô tới Quảng-nam và ở Sài-g̣n.

C̣n như chữ s với chữ x th́ cũng vậy. Ngoài Bắc với  trong Trung-kỳ  thực không phân.  C̣n Nam-kỳ th́ bảo chữ s phải đọc uốn lưỡi như chữ ch tây, c̣n chữ x th́ đọc như chữ s tây.

Chữ gi chữ d,  chữ r th́ ở Bắc-kỳ ta không phân, c̣n ở Nam-kỳ và Trung-kỳ phân biệt được chắc chữ r mà thôi, c̣n d với gi cũng đọc như chữ y***, mà không mấy người biết chắc được tiếng nào đáng viết d hay gi.

Xét ra những cách phân biệt đó,  tuy là có quốc-ngữ rồi mới sinh ra, (trừ ra chữ r th́ nguyên bao giờ Trung-kỳ với Nam-kỳ cũng vẫn có) nhưng mà tưởng những cách phân-biệt ấy cũng làm cho tiếng an-nam thêm rơ ra được một đôi chút. Bây giờ ta cứ cho như vốn vẫn có cũng chẳng sao, mà những người dùng chữ quốc-ngữ sau cũng nên theo người dùng chữ quốc-ngữ trước.

 Trong cách hai xứ đàng trong đàng ngoài dùng chữ quốc-ngữ, lại c̣n một điều ngộ nữa,  là  đàng ngoài ta th́ không phân biệt khai-khẩu âm, như d, gi,  r, ch, tr, mà đàng trong th́ lại hay lẫn bộ khẩu-âm.

Như can th́ người Nam-kỳ hay đọc lầm viết lầm ra cang, mà có chữ phải viết có chữ g, (giọng muĩ) về sau người Nam-kỳ lại yên trí rằng an đọc là ang th́ bỏ chữ g đi. Như trong sách quốc ngữ Sài-g̣n, nhiều chữ phang kế viết là phan kế; kính tŕnh chư vị đặng tàn, (tàn Bắc-kỳ ta là tường đáng lẽ phải viết là tàng). Khách sạn, trong ấy viết khách sạng.

 Tài sắc, viết lẫn là tài sắt.

sắt đanh th́ lại viết lộn là sắc đanh.

Bao nhiêu tiếng mũi dài, Nam-kỳ theo cách đọc sai,  viết ra tiếng vắn: Như cái h́nh viết theo cách đọc ra h́n, khánh viết là khán.

Trong vần Nam-kỳ có mấy vần ngoài Bắc ta không có, như vần  uơ (thuở) uơi (thuới) uơn (nguơn) uơt (duợt y). Ngoài ta th́ bốn tiếng ấy đọc và viết thủa, thoái, nguyên, duyệt.

 V́ chữ quốc-ngữ ở Nam-kỳ trước lại c̣n khuyết mất mấy vần đáng lẽ quốc-ngữ có đủ mà hoá ra không có. Như tiếng bong (chuông kêu) đáng lẽ viết bong, mà hoá ra không được v́ bong đọc là bong (vần phong). Chính lẽ th́ bong bong–ra phải viết bonh, mà bong th́ là tiếng chuông kêu; ông đáng lẽ phải viết ônh.  Ong th́ đọc phải lẽ.

Đó là mấy nơi khuyết tưởng nên nhớ mà đợi khi nào có dịp th́ sửa đi.

Dịp ấy là dịp nào, không ai nói được.

V. ****.

 

 

Chú thích: Tra Hán Việt Tự Điển của Nguyễn Văn Khôn th́ chữ nho thứ nhất đọc là chi và có nghĩa là đi, đấy. Chữ nho thứ hai viết khác nét nhưng cũng đọc là chi và có nghĩa là chống đỡ.

*** Đáng lẽ phải là d hay gi th́ đúng hơn.

**** Chữ kư tắt của cụ Nguyễn Văn Vĩnh.

 

 

 (trích Đông dương tạp chí số 33)

Nguyễn Văn Phổ và Nguyễn Kỳ sưu tầm.

Nguyễn Nga Mỹ đánh máy theo bản chụp lai.